Pages

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Nói về sự thật đằng sau sản phẩm trí tuệ nhân tạo

Dạo gần đây, trí tuệ nhân tạo (AI) - trong vỏ bọc dụng cụ trợ lý cá nhân chủ nghĩa, chương lớp lang động, xe tự hành và học máy - lại được hâm nóng, là chủ đề chính trong các cuộc chuyện trò của thung lũng Silicon, bẩm của các phương tiện truyền thông công nghệ và hội chợ thương mại...

>>> tin tưởng.# dịch vụ sửa tivi tại hà nội





AI là một trong những công nghệ đầy những hẹn thường được (các hãng công nghệ) thốt ra, nhưng chỉ được hiện thực hóa một cách ... từ từ.

Tôi nhớ đến những cuộc biểu diễn công nghệ AI của IBM, MIT, Carnie-Melon, Thinking Machines và những thứ rưa rứa giữa thập niên 1980, cũng như những nhân vật ủng hộ công nghệ như Jaron Lanier, người thường xuất hiện trên bìa của những tạp chí công nghệ đỉnh cao thời đó như "Omni".

AI là lĩnh vực tụ hội không ít nghiên cứu khoa học, nhưng việc hiện thực hóa vẫn còn như đứa bé chưa trưởng thành. Đây không phải là câu chuyện hoàng đế không mặc gì, thay vào đó thì vị hoàng đế này hiện chỉ mặc độc nhất vô nhị chiếc quần lót. Song, còn cần phải mặc vào nhiều thứ khác nữa.

vì thế, hãy đừng quá tin vào những hứa của phần mềm hay máy thông minh. Chúng ta đã cách xa, nhiều thập kỷ, thời kỳ của chiếc máy tính biết nói trong phim "Star Trek", hay như của nhân vật trí não nhân tạo trong phim AI của Steven Spielberg...

Tuy nhiên, đã có nhiều tiến triển trong lĩnh vực nghiên cứu trí não nhân tạo nói chung. Các nhà phát triển thông minh sẽ giao hội vào các lĩnh vực cụ thể mà có tiềm năng thực thụ trong ngày nay và nhường phần còn lại cho các ... tiểu thuyết gia khoa học viễn tưởng và báo chí công nghệ.

>>> san sẻ kinh nghiệm bao duong dieu hoa tai nha ha noi

Robot và AI: những hệ phái riêng biệt

Trong nhiều năm qua, các tác phẩm viễn tưởng đã dung hợp robot với trí óc nhân tạo, từ nhân vật Gort trong "The Day the Earth Stood Still” đến các Cylon trong "Battlestar Galactica," từ những robot giả người trong tiểu thuyết “I Robot” của Isaac Asimov, đến phim "Star Trek: The Next Generation".

Tuy nhiên, robot không phải là trí óc silicon, mà là máy có thể thực hành những tác vụ cơ khí trước đây được con người xử lý - liền tù tù hơn đáng tin tưởng.#, nhanh hơn, và không có nhu cầu cho một mức lương đủ sống hoặc phúc lợi.

Robot hiện phổ quát trong sinh sản và được sử dụng trong bệnh viện để cấp phát thuốc (vì chúng không biết ăn cắp), nhưng lại không có quá nhiều trong các cao ốc văn phòng và trong gia đình.

Gần đây đã có những tiến bộ đáng sửng sốt trong lĩnh vực công nghệ mô phỏng sinh vật học, được xúc tiến phát triển phần lớn nhờ vào các cựu binh Mỹ - những người đã mất tay chân trong các cuộc chiến suốt hai thập kỷ qua.

hiện nay chúng ta thấy chân tay có thể đáp ứng xung động tâm thần và sóng não như là bộ phận mở rộng tự nhiên của cơ thể, và rõ ràng chẳng bao lâu nữa chúng sẽ không cần phải gắn dây cáp điện lẳng nhẳng và các máy tương trợ để vận hành.

có nhẽ một ngày nào đó chúng ta sẽ dung hợp AI vào robot và rút cục trở thành nô lệ cho các Cylon - hoặc tệ hơn. Nhưng không còn rất lâu nữa đâu. Cùng lúc đó, một số tiến bộ trong lĩnh vực AI sẽ giúp robot làm việc hiệu quả hơn, bởi vì phần mềm của chúng trở thành tinh vi hơn.

trọng điểm nghiên cứu mô hình so khớp mẫu

phần nhiều những sản phẩm sáng ý hiện chỉ là cơ sở của AI - tính năng gợi ý sản phẩm trên trang web Amazon, các gợi ý nội dung trên Facebook, nhận dạng giọng nói của Apple Siri, hướng dẫn đường đi của Google Maps, và nhiều thứ khác như vậy - chỉ đơn giản là việc so khớp theo mẫu.

Nhờ những tiến bộ liên tiếp trong lĩnh vực lưu trữ dữ liệu và quy mô xem, nhờ sức mạnh điện toán đám mây, nhiều mẫu/quy luật có thể được lưu trữ, xác định, dựa vào đó tiếp chuyện phát triển, nhiều hơn bao giờ hết. phần lớn những gì con người làm đều dựa trên mô hình so khớp theo mẫu - để giải quyết một vấn đề, ngay từ đầu người ta hay thử đoán xem đối tượng đó giống thứ gì đã biết, sau đó thử các giải pháp (ứng) đã biết. Mô hình so khớp mẫu càng đưa ra hành động hay kết quả nhanh, thì hình như hệ thống (được xem là) càng thông minh hơn.

Nhưng chúng ta vẫn còn trong thời kỳ trứng nước nguyên sơ. Có một số trường hợp, chẳng hạn như trong lĩnh vực định vị tìm đường, có những hệ thống cung cấp dịch vụ rất tốt, nhưng cũng có những hệ thống chỉ người ta đâm vào đống gạch hay xi-măng của một phi trường đang xây dở, vào giữa hồ nước, hoặc vào một con đường ngập tuyết ở ngoại ô bởi vì ... hệ thống GPS “bảo” phải chuyển di như vậy.

Nhưng chính yếu, các hệ thống này đều "không biết gì".

Đó là lý do tại sao mà sau khi bạn truy cập Amazon và xem sản phẩm, nhiều trang web khác bạn ghé thăm lại hiển thị các mẫu quảng cáo sản phẩm đó. Thật ngớ ngẩn, các hệ thống này chỉ biết rằng bạn xem sản phẩm X đó, và do đó, chúng đấu hiển thị hình ảnh của sản phẩm đó. sáng ý là như vậy sao?

Và không chỉ có các mẫu quảng cáo sản phẩm của Amazon; tính năng so khớp âm nhạc của Apple Music và các gợi ý quãng qua giọng nói của Google Now cũng không hiểu gì về ngữ cảnh, thành thử chúng dẫn bạn vào một biển minh mông những thứ giống nhau... một cách nhanh nhảu đoảng.

Chúng thậm chí còn làm ngược ý bạn, như của tính năng "AutoCorrect" (tự động sửa từ) trên bàn phím mềm của các thiết bị Apple hiện nay. Đây là thí dụ điển hình về sự thất bại trong giải quyết vấn đề bằng sức mạnh đám đông: mọi người đều gõ phím tạo ra những câu sai văn phạm, không rõ ràng về số nhiều số ít, dấu câu, viết hoa và lỗi chính tả. (Tôi phát hiện ra rằng tắt tính năng này đi sẽ bớt lỗi hơn, ngay cả đối với tay gõ phím tệ như tôi).

Cái thiếu chính là chiều sâu của văn cảnh; AI cần biết bạn đã mua hoặc từ khước mua sản phẩm gì, để từ đó không hiển thị quảng cáo món hàng giống y sì, nhưng nên đưa ra sản phẩm nào bạn quan tâm hơn. Với âm nhạc cũng vậy - nếu danh sách bài hát bạn nghe khác nhau, vậy các gợi ý cũng cần khác đi. Và hao hao với tính gợi ý nơi ăn tối của Google Now - vâng, tôi thích các món Ấn Độ, nhưng làm ơn không phải lúc nào tôi cũng thích như vậy. Có món gì mà tôi thích và gần đây không ăn không? Vậy còn lề luật, sở thích của những người hay đi ăn cùng tôi thì sao?

AutoCorrect chính là một thí dụ khác, đòi hỏi văn cảnh. trước nhất, cần ai đó bảo Apple rằng có khác biệt giữa từ "its" và từ "it's" cũng như có nhiều biến thể ngôn từ trong tiếng Anh cần được diễn đạt đúng trên màn hình thiết bị.

Đừng mong rằng chỉ cần các chương trình bot (phần mềm trợ lý tự động) hoàn thành tác vụ đơn giản là được. Nhưng tỉ dụ về tính năng AutoCorrect cho thấy không hẳn như vậy. Trên thực tiễn, đó cùng là một loại vấn đề.




Tính năng AutoCorrect


Xác định mẫu trên đà phát triển của ngành máy học

Mô hình so khớp mẫu, ngay cả trong văn cảnh đầy đủ dữ liệu tương trợ, vẫn không đủ. vì chưng việc này cần có những điều cần được xác định trước. Đó là lý do vì sao cần xác định mẫu, nghĩa là phần mềm phát hiện ra các mẫu mới hoặc đã bị đổi thay bằng cách giám sát hoạt động của bạn.
Điều đó không dễ dàng, vày cần có lệ luật, thông số nền cho các hệ thống như vậy.

Những nạm nghiên cứu về xác định mẫu là một mảng lớn của máy học ngày nay, cho dù để dụ bạn bấm/nhấn vào quảng cáo nhiều hoặc mua hàng nhiều hơn, chẩn đoán lỗi của máy photocopy và động cơ máy bay, định tuyến đường cho xe tải dựa trên thời tiết và liên lạc, hoặc ứng phó với rủi ro trong khi tài xế (công nghệ tránh va chạm).

Vì lĩnh vực máy học khó như vậy - đặc biệt đối với những lĩnh vực không được định nghĩa và tổ chức rõ ràng - bạn chỉ có thể trông đợi xuất hiện những tiến bộ chậm, dù hệ thống có cải tiến, nhưng những cải tiến đó sẽ không có kêt quả một sớm một chiều.

Nhận dạng giọng nói là một thí dụ nhẵn - những hệ thống trước nhất (trợ giúp trên điện thoại) kém kinh khủng, nhưng giờ chúng ta có Siri, Google Now và Cortana khá tốt dành cho nhiều người, hiểu được nhiều ngữ. Một số người đích thực dùng chúng như những "người" phiên dịch.




Bên trong xe hơi tự lái


Nhưng khi văn cảnh càng không rõ ràng, máy càng khó học, vì chưng các mô hình của chúng không có đầy đủ thông tin hoặc quá lệ thuộc vào hệ quy chiếu của môi trường vận hành của riêng chúng. Xe (ô tô) tự hành là một tỉ dụ: xe hơi có thể tự học lái dựa trên mẫu và tín hiệu trên đường và từ những chiếc xe khác, nhưng các biến số bên ngoài khác như thời tiết, hành vi của người đi bộ và người chạy xe đạp, ô tô đậu lấn chỗ, công trường xây dựng... sẽ làm rối chuyện tự học của máy.

Liệu có thể vượt qua sờ soạng những khó khăn trên? Có, nhưng không phải ở tốc độ nhanh như các tay viết blog suy nghĩ.

>>> Mẹo hay cho dich vu bao duong dieu hoa tai nha

Phân tích dự báo đi sau máy học

Trong nhiều năm, ngành CNTT đã tồn tại khái niệm Phân tích dự báo (predictive analytics), mà có các tên khác như BI vận hành (operational business intelligence). Đây là một khái niệm tuyệt trần, nhưng đòi hỏi phải có việc so khớp mẫu (pattern matching), máy học (machine learning) và hệ thống thu thập - phân tách thông tin theo chiều sâu (insight). Chính chiều sâu thông báo cho phép con người đi những bước nhảy vọt, về mặt tư duy, vào lĩnh vực mới.

phân tách dự báo không đi đâu quá xa, mà chủ yếu xác định và ưng mẫu và kết quả dị thường. Chuyện này thật khó khăn, bởi trí tuệ dựa trên mẫu hay quy luật - từ hiển thị kết quả khoảng, đến chọn đường cho xe chạy, đến chọn nước cờ - dựa trên giả định rằng đa số các mẫu và đường đi là những chọn lựa tốt nhất. Nếu không, mọi người sẽ không dùng chúng nhiều như vậy.

Đa số hệ thống viện trợ dựa vào các điều kiện hiện tại để lái bạn vào một con đường đã được chứng minh. Các hệ thống dự báo phối hợp các điều kiện hiện tại và mai sau bằng cách sử dụng vơ loại toán xác suất. Nhưng đó là những trường hợp dự báo dễ dàng.

Những dự báo đích thực quan trọng lại là những cảnh huống khó nhìn ra, bởi một số lý do: bối cảnh là quá phức tạp, hoặc đường đi đúng lại là một trường hợp hiếm thấy và do đó bị loại, bởi thuật toán hay người dùng.

Như bạn thấy, có rất nhiều việc cần làm, bởi vậy hãy tỉnh táo khi đọc về những công nghệ bùng nổ trên báo chí hay hội thảo I/O của Google. mai sau sẽ đến, nhưng sẽ đến chậm và có chỗ hay, chỗ dở.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét